Khám sức khỏe tổng quát là biện pháp khoa học nhất để kiểm tra tình trạng sức khỏe của mình, phát hiện sớm các bệnh lý để điều trị kịp thời, đặc biệt là bệnh ung thư. Trong một số bệnh, kết hợp khám lâm sàng, xét nghiệm máu và các xét nghiệm riêng biệt cho từng bệnh mới đủ kết luận chẩn đoán ung thư. Vì trong nhiều trường hợp việc xét nghiệm máu chưa đủ để phát hiện bệnh ung thư.
Nhiều người cho rằng các xét nghiệm máu có thể tầm soát được ung thư nên thay vì thực hiện các phương pháp tầm soát ung thư cơ bản được Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra cho từng lứa tuổi và từng đối tượng thì nhiều bệnh nhân tự đi thực hiện xét nghiệm máu để xác định mình có đang có bị ung thư hay không?
Thực tế, khi tế bào ung thư phát triển sẽ sinh ra một số chất vào trong máu, do đó, khi nồng độ một chất nào đó tăng cao thì có thể bệnh nhân đã bị ung thư:
- Xét nghiệm CEA tăng cao có thể bị ung thư đại tràng
- Chỉ số AFP tăng cao có thể bị ung thư gan
- Chỉ số CA125 tăng cao có thể bị ung thư buồng trứng
- Chỉ số CA 19-9 tăng cao có thể bị ung thư dạ dày, tụy, ruột,....
- Xét nghiệm DR 70 tầm soát 13 loại ung thư
Theo kết luận từ rất nhiều nghiên cứu về các dấu ấn ung thư đều khẳng định răng không có một xét nghiệm máu nào có thể cho kết quả đáng tin cậy trong khảo sát, phát hiện sớm ung thư. Nhiều bằng chứng cho thấy chất CEA cũng tăng cao trong các trường hợp viêm loét ruột hoặc bệnh nhân hút nhiều thuốc, AFP tăng khi bệnh nhân bị viêm gan, CA 125 tăng trong nhiều trạng thái lành tính khác của phụ nữ như lạc nội mạc tử cung, xét nghiệm PSA thường dùng nhất cho ung thư tiền liệt tuyến cũng sẽ bị thay đổi khi bệnh nhân bị viêm tuyến tiền liệt.
Trang website của Cơ quan Quản lý Thiết bị Y tế của Anh (UK MDA Medical Devices Agency) đã đưa ra khuyến cáo là không thể sử dụng DR 70 để tầm soát ung thư vì không đủ thông tin y khoa.
Chính vì thế, việc truy tìm dấu ấn ung thư thường được sử dụng trong các trường hợp theo dõi điều trị ung thư hoặc bổ sung thêm thông tin khi bệnh nhân có nguy cơ bị ung thư cao chứ không thể thực hiện trên người khỏe mạnh để tầm soát ung thư.
Hầu như không có một xét nghiệm máu đơn độc nào có giá trị trong tầm soát ung thư cho mọi đối tượng. Ung thư giai đoạn rất sớm với bướu còn nhỏ hầu hết không tạo ra đủ lượng trong máu để có thể phát hiện được khi làm xét nghiệm. Trong cơ thể người đã có ung thư nhỏ mà hầu hết dấu hiệu sinh học bướu không tăng. Như vậy chúng ta đã bỏ sót ung thư khi làm xét nghiệm máu, nghĩa là khả năng phát hiện bệnh thấp mà trong y học gọi là độ nhạy thấp, âm tính giả cao.
2. Vai trò của các phương pháp tầm soát ung thư
Ở các nước tiên tiến, bệnh nhân có thời gian trao đổi các vấn đề sức khỏe, bệnh sử bản thân và gia đình cho bác sĩ. Trên cơ sở đó và qua quá trình kiểm tra, thăm khám, bác sĩ sẽ khuyên bệnh nhân nên thực hiện các xét nghiệm nào cho phù hợp với lứa tuổi, nguy cơ của bệnh nhân đồng thời tư vấn các thói quen trong sinh hoạt (ăn uống, tập thể dục, chơi thể thao, tiêm phòng...) để có những tác động tốt đến sức khỏe.
Sau khi có kết quả các xét nghiệm, bệnh nhân sẽ gặp lại bác sĩ đa khoa để được tư vấn và hướng dẫn cách theo dõi, điều trị các bất thường. Bệnh nhân chỉ đến khám ở bác sĩ chuyên khoa khi có chỉ định giới thiệu từ bác sĩ đa khoa.
Trong khám tổng quát không nên lạm dụng nhiều xét nghiệm máu. Các dấu ấn ung thư có thể tăng trong các bệnh lành tính, không phải ung thư, có nghĩa là khi dấu ấn ung thư tăng nhưng không phải do ung thư mà do các bệnh lành tính gây ra, nghĩa là độ đặc hiệu thấp, dương tính giả cao.
Nhiều người quan niệm, xét nghiệm dấu ấn ung thư nếu tăng thì sẽ đi làm xét nghiệm khác để xác định. Điều này không đủ và bỏ sót rất nhiều vì khả năng dấu hiệu sinh học bướu tăng khi ung thư còn nhỏ là rất thấp. Mặt khác, khi dấu hiệu sinh học bướu tăng mà kết luận có ung thư là không chính xác hoặc làm thêm các xét nghiệm khác để truy tìm ung thư sẽ gây tốn kém hoặc gây lo lắng quá mức.
Do đó, nên tầm soát ung thư với đối tượng nguy cơ cao là những người trong gia đình có người bị ung thư, thuộc nhóm tuổi có tỉ lệ mắc bệnh cao, những người có tiếp xúc yếu tố nguy cơ cao gây ung thư. Có thể tầm soát theo chương trình là tầm soát cho một nhóm người trong dân số nguy cơ cao mắc các bệnh ung thư thường gặp hay tầm soát cá nhân là những người trong nhóm nguy cơ nhận thức được ích lợi của tầm soát và tự đi tầm soát.
Các loại tổn thương có thể phát hiện khi tầm soát bao gồm không có bất thường nào, tổn thương lành tính, tổn thương tiền ung thư, tổn thương nghi ngờ ung thư thấp, tổn thương nghi ngờ ung thư cao. Các tổn thương tiền ung thư là những tổn thương có khả năng chuyển thành ung thư sau nhiều năm. Các tổn thương nghi ngờ ung thư thấp đa số sẽ được theo dõi và đánh giá lại trong thời gian ngắn. Tổn thương nghi ngờ ung thư cao sẽ được lấy mẫu tế bào (mẫu nhỏ) hoặc mẫu mô (mẫu lớn) để xác định ung thư.
Mỗi người nên thực hiện việc tầm soát ung thư càng sớm càng tốt, nên lặp lại định kỳ 6 tháng, 1 năm, 2 năm... tùy theo loại ung thư. Ngoài ra, chưa đến kỳ tầm soát nhưng có bất cứ dấu hiệu nào nghi ngờ ung thư thì nên đi khám chuyên khoa ngay. Tầm soát ung thư định kỳ và đúng phương pháp giúp phát hiện tổn thương tiền ung thư và ung thư giai đoạn rất sớm, sẽ đem đến cơ hội chữa khỏi bệnh rất cao và ít tốn kém.
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại mà còn nổi bật với dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp; không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa. Bệnh viện cung cấp cho khách hàng các gói tầm soát sàng lọc ung thư như: Gói tầm soát ung thư phổi, Gói tầm soát ung thư vú, Gói tầm soát ung thư dạ dày,....giúp khách hàng chủ động kiểm tra sức khỏe và phòng tránh ung thư.
Khách hàng có thể trực tiếp đến hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc để thăm khám hoặc liên hệ hotline tại đây để được hỗ trợ.
Bài viết tham khảo nguồn Sở Y tế Hà Nội
XEM THÊM:
- Tầm soát ung thư vú (Phần I)
- Khuyến cáo sàng lọc ung thư theo từng độ tuổi
- Gói Tầm soát ung thư phổi
Tầm soát ung thư: Phương pháp phát hiện sớm bệnh, giảm chi phí điều trị và tỷ lệ tử vong do ung thư